Ngân hàng Việt hấp dẫn nhà đầu tư ngoại, nhưng thận trọng nới room
(HQ Online) - Việc hút dòng vốn ngoại được xem là bước đi chiến lược giúp các ngân hàng trong nước nâng cao tiềm lực tài chính. Vì thế, nhiều ngân hàng dù đã kín tỷ lệ sở hữu (room) của nhà đầu tư nước ngoài nhưng vẫn mong muốn được nới thêm.
Lãnh đạo VPBank (bên phải) và đại diện Ngân hàng SMBC ký kết thỏa thuận. |
Tạo nên những thương vụ nghìn tỷ
Thương vụ “dậy sóng” trong 3 tháng đầu năm 2023 là việc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) ký kết thỏa thuận phát hành riêng lẻ 15% vốn điều lệ cho Ngân hàng Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC) – thuộc tập đoàn tài chính Sumitomo Mitsui Financial Group, Inc (SMFG) của Nhật Bản. Thỏa thuận này chính thức đưa SMBC Group trở thành nhà đầu tư chiến lược của VPBank, đồng thời VPBank sẽ thu về 35,9 nghìn tỷ đồng vốn cấp 1, nâng tổng vốn chủ sở hữu của VPBank từ 103,5 nghìn tỷ đồng lên xấp xỉ 140 nghìn tỷ đồng, trở thành ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn thứ 2 tại Việt Nam. Có thể nói, đây là thương vụ có giá trị kỷ lục trong lĩnh vực tài chính tại Việt Nam từ trước tới nay, phá vỡ kỷ lục mà chính VPBank tạo ra trước đó khi bán 49% vốn Công ty tài chính FE Credit với giá trị gần 1,4 tỷ USD.
Đại diện SMBC nêu rõ, dù kinh tế thế giới hiện có nhiều bất ổn song vẫn tin tưởng vào sự phát triển của Việt Nam. Còn phía VPBank cho biết, khoản đầu tư này cho phép VPBank có đủ năng lực tài chính để phục vụ những khách hàng doanh nghiệp có quy mô rất lớn, đặc biệt là những doanh nghiệp FDI, các tập đoàn đa quốc gia đang và sẽ đầu tư vào Việt Nam.
Không dừng lại ở đó, theo tài liệu mới được công bố phục vụ đại hội đồng cố đông (ĐHĐCĐ) sắp tới, VPBank không chỉ trình cổ đông thông qua thương vụ bán vốn kể trên mà còn để ngỏ nhiều thương vụ khác. Cụ thể, VPBank trình cổ đông giao Hội đồng quản trị chủ động thực hiện các giao dịch liên quan đến góp vốn, mua cổ phần, mua lại công ty con, liên kết, hợp tác hoặc tham gia các phương án cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém…
Số liệu từ Trung tâm Lưu ký Chứng khoán cho thấy, có khoảng 16 ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nước ngoài trên 15%, trong đó một số ngân hàng đã kín và gần kín room ngoại. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng vẫn còn nguyên 100% room ngoại hoặc tỷ lệ sở hữu nước ngoài rất thấp như SeABank, Bac A Bank, SHB, LienVietPostBank… do các ngân hàng này khóa room để chờ đối tác chiến lược. Trong khi đó, mặc dù mở room ngoại ở mức tối đa 30% vốn điều lệ, song tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại NCB và SHB chỉ lần lượt là 8,87% và 6,08% vốn điều lệ.
Không nên mở rộng cho tất cả ngân hàng
Điểm chung của các ngân hàng là đều mong tìm được nhà đầu tư nước ngoài phù hợp. Room ngoại được mở rộng để có dư địa cho các phương án huy động vốn, tăng vốn chủ sở hữu đồng thời nâng cao năng lực tài chính, đẩy nhanh tiến độ xử lý các vấn đề còn tồn đọng như nợ xấu, trái phiếu...
TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho rằng, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào hệ thống ngân hàng đã mang lại những thay đổi tích cực về tài chính, công nghệ, quản trị và điều hành, nên đây là điều cần thiết để các ngân hàng Việt Nam tiến lên theo các thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
Tuy nhiên, lãnh đạo một ngân hàng thương mại cho biết, mức độ quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đến ngân hàng trong nước là rất lớn, nhưng nhiều ngân hàng đã cạn room hoặc tỷ lệ thấp khiến nhà đầu tư không còn mặn mà. Do đó, vấn đề nới room ngoại đã và đang được không ít ngân hàng và chuyên gia đề xuất.
Trong Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 3/01/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra đề xuất cho phép các tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc (không bao gồm các ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) được nâng room vốn ngoại lên 49%. Theo NHNN, hiện nay không nên mở rộng với tất cả tổ chức tín dụng mà chỉ nên mở rộng và khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các tổ chức tín dụng yếu kém và nhận chuyển giao.
Nguyên nhân được cơ quan này chỉ ra là khoảng 5 năm trở lại đây, đã có hiện tượng một số ngân hàng nước ngoài (chủ yếu từ châu Âu) dần dần rút vốn đầu tư ra khỏi ngân hàng trong nước, chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư trong nước hoặc các ngân hàng châu Á từ Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản. Việc nhà đầu tư nước ngoài (cổ đông lớn, nhà đầu tư chiến lược) thoái vốn hoặc chuyển các khoản đầu tư của họ cho cổ đông khác đồng nghĩa với việc ngân hàng có thể mất đi phần lợi ích từ nhóm khách hàng do nhà đầu tư nước ngoài mang lại (nhóm khách hàng có thể chuyển sang dịch vụ của những tổ chức khác có quan hệ với nhà đầu tư hoặc với tổ chức tín dụng do nhà đầu tư nước ngoài thành lập/tham gia góp vốn). Hơn nữa, quy định về room ngoại bị hạn chế còn do phải đáp ứng yêu cầu của các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đang là thành viên.