Tìm đúng động lực tăng trưởng
(HQ Online) - Sau khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 2007 - 2008, trong khoảng 10 năm qua, đa số các nền tài chính các quốc gia trên thế giới cũng như trong khu vực đều tăng nợ, tăng bội chi từ 2,2% - 5,5%, thời gian gần đây giảm xuống 3,5%. Cùng với tăng bội chi, để giải quyết khủng hoảng, nợ công toàn thế giới tăng nhanh.
Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật khi bội chi liên tục tăng, dẫn đến nợ công trong vòng 10 năm tăng từ 32% năm 2005 lên 63,8% năm 2015 và trở thành thách thức rất lớn.
Tuy nhiên, do sớm nhận biết được những thách thức của mình nên Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công để đảm bảo nền ngân sách phát triển nhanh và bền vững. Qua một thời gian, tỷ lệ động viên vào NSNN của Việt Nam đã đạt mức bình quân gần 24% GDP. Cơ cấu thu chuyển dịch quan trọng, thu từ sản xuất, kinh doanh, từ thuế phí đã đạt 83% tổng thu ngân sách. Đặc biệt, đến nay, thu ngân sách nhà nước của Việt Nam đã không phụ thuộc vào hoạt động khai thác khoáng sản, tài nguyên khi thu từ hoạt động này chỉ còn chiếm 3,5% tổng thu ngân sách thay vì 23% như 10 năm về trước. Trong cơ cấu chi ngân sách, Việt Nam đã kiên định giảm bội chi từ trên 5% GDP vào năm 2015 xuống còn 3,4% GDP năm 2019 và kỳ vọng thấp hơn vào cuối năm 2020. Những kết quả đó đã giúp nợ công giảm vững chắc.
Vậy nhưng, phải thừa nhận rằng, mức nợ công còn cao, các khoản lãi, khoản đến hạn nhiều lúc gây sức ép, buộc Chính phủ phải gia tăng GDP để đảm bảo tỷ lệ nợ công không vượt trần. Trong khi đó, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào chi tiêu công và đầu tư công. Điều đó vô hình trung tạo ra một “bùng binh”, muốn tăng GDP thì phải tăng nợ công, muốn tăng nợ công thì phải tăng GDP.
Việc cần làm gấp bây giờ là phải xác định được động lực tăng trưởng thực sự để bớt phụ thuộc vào chi tiêu và đầu tư công, thay vào đó cần hướng tới tăng cường chi tiêu hộ gia đình, đầu tư tư nhân và xuất khẩu ròng. Để làm được điều đó, quan trọng là phải cắt giảm mạnh được chi thường xuyên, giảm bội chi ngân sách và chuyển sang thặng dư ngân sách bằng cách tăng hiệu quả chi tiêu và đầu tư công lên cao hơn mức chi phí vay, giảm lạm phát và lãi suất vay vốn, đồng thời thực thi chính sách tỷ giá hỗ trợ xuất khẩu cho khu vực doanh nghiệp nội địa.